Tin tức

Trang chủ » » Doanh nghiệp giải khát nội đang "hao mòn"

Doanh nghiệp giải khát nội đang "hao mòn"

15/06/2016

Chuyên mục: Tin tức In trang

Chỉ tính riêng nước giải khát không cồn, doanh số năm 2014 lên tới gần 4 tỉ USD. Với tốc độ tăng bình quân hơn 10%/năm, cuộc chiến giành thị phần trên thị trường nước giải khát nội đang diễn ra quyết liệt nhưng phần thắng đã nghiêng hẳn về các doanh nghiệp ngoại.

Không tận dụng hết lợi thế

Mặc dù, có lợi thế về nguồn nguyên liệu trái cây nhiệt đới không thua kém Thái Lan, nhưng công nghệ chế biến nước giải khát từ nguyên liệu hoa quả của Việt Nam lại có khoảng cách khá xa với nước này. Nhiều nhận định cho rằng, trái cây trong nước đến mùa thường rơi vào tình trạng không có người mua, bị bán đổ bán tháo, hoặc hái bỏ hoặc may mắn hơn là trông chờ vào các cuộc giải cứu. Song thực tế, bài toán dễ nhất và hiệu quả nhất là đầu tư vào công nghệ chế biến dường như không thấy ai làm đến nơi đến chốn. Chúng ta thích làm cái dễ, thích sử dụng hương liệu hơn là dùng công nghệ để bảo quản, “ép” những nguyên liệu thật đó thành sản phẩm tốt để tiêu thụ ngay tại thị trường nội địa. Theo các chuyên gia, việc đầu tư vào công nghệ chế biến đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải tính đến bài toán lâu dài, quy hoạch vùng nguyên liệu, liên kết với nông dân… Việc này không đơn giản, đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực vốn cũng như quản trị bài bản, chuyên nghiệp. Đó là lý do khiến doanh nghiệp nội “ngại” đầu tư. 

Theo báo cáo của Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam chỉ trong vòng 15 năm, sản lượng nước giải khát tại thị trường Việt Nam tăng gấp 6 lần, từ 800 triệu lít vào năm 2000 lên 4,8 tỉ lít trong năm 2015 và đang được định vị là ngành “hot” nhất trong nhóm hàng thực phẩm tiêu dùng nhanh. Điển hình như thương hiệu Tribeco, mặc dù đã có lịch sử 20 năm hoạt động và luôn được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao trong hơn 11 năm liền trước đó. Thời điểm năm 2000, sản phẩm sữa đậu nành Tribeco được xem là “vô đối” trong dòng sản phẩm nước uống thiên nhiên có lợi cho sức khỏe. Thế nhưng, sau khi lần lượt bán cổ phần cho các đối tác ngoại là Uni-President cùng lúc với việc xây dựng thêm 2 nhà máy để mở rộng sản xuất thì Công ty bắt đầu rơi vào cảnh nợ nần.

Bị thâu tóm và "lâm" vào cuộc chiến khốc liệt

Không ít DN Việt đã bị thâu tóm, những thương hiệu đình đám một thời đã rơi vào tay DN nước ngoài. . Đến nay, vẫn không ít người đặt ra câu hỏi vì sao khi có cổ đông ngoại tham gia thì Tribeco lại bước vào con đường nợ nần để dẫn đến giải thể và thương hiệu lại rơi vào tay DN ngoại? 

Không chỉ thâu tóm các DN nội địa, các tập đoàn ngoại cũng tích cực mua lại những thương hiệu khác đang hiện hữu tại VN. Ví dụ như Kirin Holdings (Nhật) đã mua lại Interfoods đến từ Malaysia, công ty sở hữu thương hiệu trà bí đao Wonderfarm...
Bên cạnh bị thâu tóm, không ít thương hiệu Việt một thời đình đám nay rơi vào thế lép vế, vắng bóng dần trên thị trường do không thể cạnh tranh, như Công ty cổ phần NGK Chương Dương. Được xây dựng vào năm 1952, trực thuộc Tập đoàn BGI của Pháp, thời điểm đó Chương Dương được coi là nhà máy sản xuất NGK lớn nhất tại miền Nam. Giai đoạn ngay sau khi đất nước thống nhất có thể xem là thời hoàng kim nhất của Chương Dương khi các sản phẩm của công ty, đặc biệt là NGK có ga xá xị có mặt khắp mọi nhà. Thế nhưng kể từ sau năm 1993, khi có sự xuất hiện của các tập đoàn ngoại, nhất là sự cạnh tranh dữ dội về nước ngọt có ga thì thị phần, doanh thu của Chương Dương bị thu hẹp dần. Trước tình hình đó, Chương Dương phải mở rộng sản phẩm sang các dòng nước giải khát không ga, nước tinh khiết, rượu nhẹ... Nhưng sự yếu thế trong các hoạt động quảng bá khiến thương hiệu này một lần nữa bị lu mờ để rồi người tiêu dùng gần như không biết đến các sản phẩm khác của Chương Dương ngoài sá xị.
 
Dạo quanh các chợ, siêu thị, cửa hàng, các quầy NGK không cồn có hàng trăm sản phẩm khác nhau nhưng các thương hiệu nước ngoài chiếm thị phần áp đảo. Từ các sản phẩm nước có ga đến nước ngọt như trà xanh, nước ép dâu, táo, dứa, nha đam... hay nước uống đóng chai đều xuất phát từ những cái tên ngoại. Đồng thời, thị trường đang chứng kiến sự có mặt của nhiều sản phẩm nước giải khát nhập khẩu từ Thái Lan, Malaysia, Indonesia... sau khi cộng đồng kinh tế chung ASEAN được hình thành từ cuối năm 2015 đến nay. Cơ hội từ thị trường này rất lớn. Thế nhưng, bên cạnh những "ông lớn" đã có mặt, sắp tới đây DN trong nước sẽ rất mệt mỏi để cạnh tranh với các nước trong khu vực ASEAN. Ngay cả nếu VN đánh thuế cho mặt hàng này cũng chưa chắc bảo vệ được các DN nhỏ và vừa. rong ngành này, người tiêu dùng bị ảnh hưởng rất lớn về yếu tố thương hiệu khi quyết định mua hàng. Vì vậy, khi đã vào thị trường, các nhà thương mại, sản xuất đẩy mạnh để làm thị trường, quảng bá thương hiệu. Các DN FDI cũng có nhiều lợi thế về quy mô sản xuất nên thường đưa ra giá thành rất rẻ khiến các DN trong nước rất khó cạnh tranh. Khi cầm cự không nổi, nghiên cứu làm ra sản phẩm mới không có, nhiều DN đuối sức, bỏ cuộc. Lúc này, các cuộc mua bán sáp nhập lại tiếp tục diễn ra. Đây rõ ràng là cơ hội cho những ông lớn ngoại.
Hoàng Quyên
Tổng hợp
  




Văn bản gốc